Sơ sinh non tháng là gì? Các công bố khoa học về Sơ sinh non tháng

Sơ sinh non tháng là khi thai nhi được sinh ra trước khi hoàn thành 37 tuần thai kỳ. Sơ sinh non tháng (hay còn gọi là sinh non) là khi thai nhi được sinh ra tr...

Sơ sinh non tháng là khi thai nhi được sinh ra trước khi hoàn thành 37 tuần thai kỳ.
Sơ sinh non tháng (hay còn gọi là sinh non) là khi thai nhi được sinh ra trước khi hoàn thành 37 tuần thai kỳ, tính từ ngày đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt cuối cùng. Thời gian thai nhi được nhận là sơ sinh non tháng được chia thành các độ tuần như sau:

- Sơ sinh non tháng: 28-31 tuần thai kỳ
- Sơ sinh non tháng rất nhẹ: 26-28 tuần thai kỳ
- Sơ sinh non tháng nhẹ: 28-32 tuần thai kỳ
- Sơ sinh non tháng trung bình: 32-34 tuần thai kỳ
- Sơ sinh non tháng nặng: 34-37 tuần thai kỳ

Sơ sinh non tháng có nguy cơ cao hơn cho các vấn đề sức khỏe và phát triển so với thai nhi sinh đúng hạn. Thai nhi sơ sinh non tháng thường có mức độ trưởng thành không hoàn chỉnh, chưa phát triển hoàn toàn các hệ thống cơ quan và chức năng của cơ thể.

Các vấn đề sức khỏe thường gặp ở sơ sinh non tháng bao gồm hô hấp kém, khó ngậm sữa, khả năng giữ ấm kém, nguy cơ nhiễm trùng cao, vấn đề sự phát triển và tăng cân chậm chạp.

Việc chăm sóc và điều trị cho sơ sinh non tháng thường yêu cầu sự hỗ trợ từ bác sĩ chuyên khoa và các chuyên gia y tế. Người bệnh có thể được điều trị trong phòng chăm sóc sơ sinh đặc biệt (NICU) để nhận được chăm sóc đặc biệt và giám sát liên tục.

Mục tiêu của việc chăm sóc sơ sinh non tháng là giảm nguy cơ và tác động của các vấn đề sức khỏe, và đảm bảo sự phát triển và tăng cân tốt nhất cho em bé.
Các phân loại sơ sinh non tháng thường dựa trên số tuần thai kỳ và trọng lượng của thai nhi:

1. Sơ sinh non tháng: Đây là trường hợp sơ sinh trước 37 tuần thai kỳ. Thai nhi có thể được phân loại thành sơ sinh non tháng 28-31 tuần (rất sớm) hoặc sơ sinh non tháng 32-37 tuần (gần hơn đến tuần hạn). Những em bé sơ sinh non tháng này thường cần đến trung tâm chăm sóc sơ sinh đặc biệt.

2. Sơ sinh non tháng rất nhẹ: Đây là trường hợp sơ sinh từ 26 đến 28 tuần thai kỳ. Đặc điểm của sơ sinh non tháng rất nhẹ là chúng thường có trọng lượng nhỏ hơn, gan và phổi chưa phát triển đầy đủ, hệ thần kinh chưa rõ ràng và có nguy cơ cao cho các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.

3. Sơ sinh non tháng nhẹ: Đây là trường hợp sơ sinh từ 28 đến 32 tuần thai kỳ. Sơ sinh non tháng nhẹ thường có trọng lượng lớn hơn so với sơ sinh non tháng rất nhẹ, nhưng vẫn có nguy cơ cao cho các vấn đề sức khỏe như hô hấp khó khăn, nguy cơ nhiễm trùng, thiếu dinh dưỡng và sự phát triển không đầy đủ.

4. Sơ sinh non tháng trung bình: Đây là trường hợp sơ sinh từ 32 đến 34 tuần thai kỳ. Sơ sinh non tháng trung bình có nguy cơ ít hơn so với sơ sinh non tháng nhẹ, nhưng vẫn có thể cần chăm sóc đặc biệt trong phòng sơ sinh đặc biệt.

5. Sơ sinh non tháng nặng: Đây là trường hợp sơ sinh từ 34 đến 37 tuần thai kỳ. Sơ sinh non tháng nặng thường có trọng lượng gần bằng với thai nhi sinh đúng hạn, nhưng vẫn có nguy cơ nhất định cho các vấn đề sức khỏe và cần xem xét chăm sóc sơ sinh đặc biệt.

Sơ sinh non tháng thường yêu cầu chăm sóc đặc biệt và theo dõi thường xuyên để đảm bảo sự phát triển và tăng cân tốt nhất. Các biện pháp chăm sóc bao gồm đảm bảo nhiệt độ ổn định, dinh dưỡng thích hợp, theo dõi sự phát triển và tăng cân, hỗ trợ hô hấp nếu cần, giảm nguy cơ nhiễm trùng và đảm bảo sự phát triển hệ thần kinh. Các chuyên gia y tế sẽ đánh giá và theo dõi con của bạn để quyết định cách chăm sóc tốt nhất cho em bé sơ sinh non tháng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sơ sinh non tháng":

Ngộ độc thai kỳ ở mẹ có liên quan đến sự giảm tần suất xuất huyết mô nguyên sinh ở trẻ sơ sinh non tháng Dịch bởi AI
Journal of Child Neurology - Tập 7 Số 1 - Trang 70-76 - 1992

Để đánh giá các yếu tố nguy cơ trước sinh và trong sinh liên quan đến sự phát triển của xuất huyết mô nguyên sinh - xuất huyết nội thất (GMH-IVH), chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu dịch tễ học tiến cứu trên 449 trẻ sơ sinh có trọng lượng lúc sinh dưới 1501 gram. Nghiên cứu này cho phép chúng tôi kiểm tra giả thuyết mà chúng tôi đã đưa ra trước đó rằng trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị tiền sản giật có nguy cơ phát triển GMH-IVH giảm đáng kể. Trong số này, bảy mươi hai (16%) trẻ sơ sinh đã phát triển GMH-IVH. Một (2,5%) trong số 40 bà mẹ có chẩn đoán tiền sản giật và 71 (17,4%) trong số 409 bà mẹ không bị tiền sản giật đã sinh ra những trẻ sơ sinh phát triển GMH-IVH. GMH-IVH đã được quan sát thấy ở 6/107 (5,6%) trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị cao huyết áp, bao gồm 4/69 (5,8%) của trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị cao huyết áp thai kỳ, so với 66/352 (18,8%) trẻ sơ sinh từ các bà mẹ không mắc cao huyết áp. Chỉ 7,3% (8/108) trẻ sinh ra từ các bà mẹ có protein niệu đã bị GMH-IVH, so với 18,3% (64/350) trẻ sơ sinh có mẹ không mắc protein niệu. GMH-IVH đã được quan sát thấy ở 5/89 (5,6%) trẻ sơ sinh có mẹ bị cả cao huyết áp và protein niệu, trong khi 63/332 (19%) trẻ sinh ra từ các bà mẹ không có cả hai yếu tố đó đã phát triển GMH-IVH. Trong phân tích hồi quy logistic từng bước, những phát hiện quan trọng này không thể được giải thích bởi sự hiện diện của cơn chuyển dạ, toan máu sau sinh, cần phải đặt nội khí quản, việc dùng corticosteroids trước sinh, trọng lượng lúc sinh hay tuổi thai. Ngoài ra, chúng tôi phát hiện rằng mẹ nhận được magnesi sulfat có liên quan đến nguy cơ giảm GMH-IVH ngay cả đối với những trẻ sinh ra từ các bà mẹ không có tiền sản giật. Chúng tôi giả thuyết rằng mối liên hệ giữa tiền sản giật và GMH-IVH có thể liên quan đến tác động của prostaglandin. Giá trị prostaglandin I2 (PGI2) ở mẹ, nhau thai và dây rốn giảm thường thấy ở những phụ nữ bị tiền sản giật. Do đó, trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị tiền sản giật có thể ở trong trạng thái sinh lý tương tự như những người đã nhận indomethacin, một chất ức chế cyclooxygenase khiến giảm mức PGI2 và là một tác nhân dự phòng GMH-IVH hiệu quả. Chúng tôi kết luận rằng tiền sản giật/ngộ độc thai kỳ ở mẹ trong tam cá nguyệt ba sớm có liên quan đến nguy cơ giảm GMH-IVH ở trẻ sơ sinh non tháng. (J Child Neurol 1992;7:70-76).

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM PHỔI Ở TRẺ SƠ SINH NON THÁNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG CẦN THƠ NĂM 2019 - 2020
  Đặt vấn đề: Viêm phổi (VP) là hiện tượng viêm nhiễm của nhu mô phổi bao gồm viêm phế nang, túi phế nang, ống phế nang, tổ chức liên kết khe kẽ và viêm tiểu phế quản tận cùng. Thời kỳ sơ sinh tính từ lúc sinh đến hết 28 ngày đầu sau đẻ, viêm phổi sơ sinh được chia hai loại: VP khởi phát (≤3 ngày sau sanh) và VP khởi phát trễ (>3 ngày sau sanh). Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh viêm phổi sơ sinh (VPSS) non tháng. Đánh giá kết quả điều trị và yếu tố liên quan bệnh viêm phổi ở trẻ sơ sinh non tháng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, cắt ngang có mô tả ở 65 trẻ VPSS non tháng và 67 trẻ VPSS đủ tháng từ 02/2019 đến 06/2020. Kết quả: Trẻ VPSS non tháng và trẻ VPSS đủ tháng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về dấu hiệu nhiễm trùng bú kém bỏ bú (p = 0,127 >0,05) tuy nhiên có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về dấu hiệu nhiễm trùng như ọc sữa, chướng bụng và sốt ( hạ thân nhiệt) với p <0,05. Dấu hiệu hô hấp trẻ VPSS non tháng và trẻ VPSS đủ tháng có khò khè (13,85% và 64,18%), thở rên 27,69% và 1,49%, cơn ngưng thở >20 giây và tím tái chỉ xảy ra ở trẻ VPSS non tháng 43,08% và trẻ VPSS đủ tháng 4,48%. Nhóm VPSS non tháng có tỷ lệ đổi kháng sinh cao hơn nhóm VPSS đủ tháng (35,38% so với 22,39%). Tỷ lệ điều trị thành công ở  nhóm VPSS ở trẻ đủ tháng 74,63% và VPSS ở trẻ non tháng 56,92%. Tử vong chỉ xảy ra ở trẻ VPSS non tháng 7,69%.
#viêm phổi sơ sinh (VPSS) #viêm phổi (VP)
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH NON THÁNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP KANGAROO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC CHÂU ĐỐC
  Đặt vấn đề: Tỉ lệ trẻ sinh non/nhẹ cân chiếm 19% trong mô hình bệnh tật của trẻ sơ sinh, chăm sóc tốt các trẻ sinh non/nhẹ cân luôn là mục đích của y học nhằm cho ra đời những trẻ có thể chất khoẻ mạnh, thông minh trong đó chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả nhất cho trẻ sinh non/nhẹ cân. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ non tháng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang có phân tích trên 48 trẻ non tháng có cân nặng từ 1500 gram đến 2500 gram, không dị tật bẩm sinh, không phụ thuộc thở máy. Kết quả: 68,8% trẻ có vàng da, 64,4% trẻ có suy hô hấp nhẹ, 50% trẻ có nhiễm trùng huyết khi áp dụng chăm sóc Kangaroo. Người thực hành chủ yếu là cha và mẹ chiếm: 62,5%. Số ngày chăm sóc Kangaroo trung bình 9,6±2,5 ngày. Số giờ thực hành tăng dần từ 12,6 giờ lên 15,4 giờ/ngày khi mẹ đã quen cách chăm sóc, sự thay đổi mạch, nhiệt độ, nhịp thở trẻ không đáng kể và dần ổn định, cân nặng trẻ có giảm trong 3-4 ngày đầu sau đó tăng dần từ 2004±255gram lên 2161±257gram, 100% bà mẹ hài lòng với chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo. Kết luận: Chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả giúp cho trẻ hoàn thiện thể chất.
#sinh non #Kangaroo
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH MÀNG TRONG BẰNG BƠM SURFACTANT QUA KỸ THUẬT LISA Ở TRẺ SƠ SINH NON THÁNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Đặt vấn đề: Bệnh màng trong phổ biến ở trẻ sơ sinh non tháng, xảy ra do thiếu hụt surfactant vì phổi chưa trưởng thành. Bơm surfactant ít xâm lấn (LISA) điều trị bệnh màng trong đã được chứng minh về hiệu quả, an toàn, tính khả thi và được áp dụng nhiều nơi trên thế giới. Mục tiêu nghiên cứu: 1) Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh non tháng.2) Đánh giá kết quả điều trị và một số yếu tố liên quan thất bại điều trị bệnh màng trong bằng bơm surfactant qua kỹ thuật LISA. 3) Khảo sát một số yếu tố liên quan đến thất bại điều trị bệnh màng trong bằng bơm surfactant qua kỹ thuật LISA Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 169 trẻ sơ sinh non tháng bệnh màng trong tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ từ tháng 01/2019 đến 12/2020. Kết quả: Giới tính nam chiếm 59,2%, tuổi thai trung bình 31,3 ± 2,7 tuần, cân nặng trung bình 1576 ± 463g. Có 29,6% trẻ suy hô hấp mức độ nặng, có 15,4% trẻ nhiễm trùng sơ sinh sớm, bệnh màng trong độ II, III chiếm 78,7%. Bơm surfactant giúp giảm nhu cầu FiO2 rõ rệt sau 6 giờ (53,1% xuống 32,8%), tăng SpO2 (88,6% lên 94,1%). Sau bơm 6 giờ, bệnh màng trong độ III giảm từ 86,7% xuống 31,1%, không còn bệnh màng trong độ IV. Trẻ sống chiếm 62,2%, tử vong 37,8%. Yếu tố liên quan đến thất bại điều trị: tuổi thai, cân nặng lúc sinh, suy hô hấp nặng (OR=5,63, p=0,029), nhiễm trùng sơ sinh sớm (OR=5,33, p=0,034). Kết luận: Điều trị bệnh màng trong bằng surfactant cho trẻ sơ sinh non tháng đạt hiệu quả đáng kể và cần tiếp tục thực hiện.
#Bệnh màng trong #surfactant #LISA
Nhiễm Cytomegalovirus sau sinh ở trẻ sơ sinh non tháng
Nhiễm Cytomegalovirus (CMV) sau sinh thường không có biểu hiện lâm sàng rõ rệt ở trẻ đủ tháng, nhưng có thể gây triệu chứng nặng nề giống nhiễm khuẩn huyết, viêm ruột, viêm phổi, và làm tăng tỉ lệ loạn sản phế quản phổi (broncho pulmonary dysplasia- BPD) ở trẻ sinh non dưới 32 tuần. Yếu tố nguy cơ bao gồm lây qua dịch tiết đường sinh dục khi sinh, truyền chế phẩm tế bào máu sau sinh (khối hồng cầu, khối tiểu cầu) chưa được làm nghèo bạch cầu, và qua sữa mẹ ở trẻ sinh ra từ bà mẹ có phản ứng huyết thanh dương tính. Quyết định điều trị dựa vào mức độ biểu hiện lâm sàng, thời gian điều trị thường từ 4-8 tuần. Không có bằng chứng rõ ràng cho thấy nhiễm CMV sau sinh ảnh hưởng đến thính lực và phát triển thần kinh trong những năm đầu, tuy nhiên trẻ bị bệnh có thể giảm điểm nhận thức khi theo dõi tới tuổi học đường.
#Nhiễm Cytomegalovirus #CMV #sau sinh #sinh non.
Sự phát triển vòng đầu của trẻ sơ sinh non tháng tại Khoa Hồi sức cấp cứu Nhi – Sơ sinh Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên năm 2022
Đo và đánh giá sự phát triển của vòng đầu là phương pháp đơn giản, rẻ tiền và nhanh chóng nhất hiện có để đánh giá sự phát triển của hệ thần kinh trung ương, từ đó kịp thời đưa ra các chương trình can thiệp và đánh giá sau can thiệp trên nhóm trẻ sơ sinh non tháng. Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, 70 trường hợp trẻ sinh non tháng nhập và điều trị tại khoa Hồi sức Cấp cứu Nhi - Sơ sinh, Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên trong thời gian từ 01/3/2022 đến 30/4/2022 ghi nhận: vòng đầu trung bình của trẻ nữ : 28,75 ± 1,91 (cm), trẻ nam 28,23 ± 2,37 (cm); kích thước vòng đầu của nhóm trẻ đều thấp so với biểu đồ Fentom; vòng đầu nhỏ hơn tuổi thai chiếm tỷ lệ 22,9%; sự phát triển vòng đầu trung bình trong 4 tuần nghiên cứu giảm dần từ 0,8 – 0,2 cm/tuần; có tương quan thuận giữa tuổi thai với vòng đầu ở mức độ rất chặt và biểu diễn theo phương trình hồi quy tuyến tính: Vòng đầu (cm) = 8,0091 + 0,6302 x tuổi thai (tuần); hệ số tương quan r = 0,871; p < 0,05.
#sơ sinh non tháng #phát triển #vòng đầu #premature infant #head circumference #growth
Đặc điểm lâm sàng, một số biến chứng và phương pháp điều trị sơ sinh non tháng tại đơn vị hồi sức nhi sơ sinh Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên năm 2021
Nghiên cứu nhằm mục tiêu khảo sát về mô hình bệnh tật, phương pháp và hiệu quả điều trị sơ sinh non tháng tại bệnh viện đa khoa Vùng Tây Nguyên năm 2021, thực hiện từ tháng 01 năm 2021 đến tháng 12 năm 2021 trên 206 trẻ sơ sinh non tháng điều trị nội trú với phương pháp mô tả hàng loạt cases bệnh. Kết quả cho thấy: nhập viện trung bình ở 32 - 33 tuần thai, cân nặng trung bình 1684.22 + 459.94 gram, gặp ở 91,7% mẹ sinh non chưa được tiêm corticoid trước sinh, vào viện với suy hô hấp 90,8%), hạ thân nhiệt gặp lớn nhất ở nhóm < 28 tuần (72,2%), biến chứng hay gặp là nhiễm trùng huyết muộn và bệnh màng trong (36,9% và 23,3%), được xử trí NCPAP (72,8%), thở máy (29,6%), tỷ lệ bơm sulfactant lần lượt ở các nhóm < 28 tuần, 28 - < 32 tuần và 32 - <34 tuần là 16,7 %, 15,4% và 15,8%. Truyền hồng cầu và huyết tương đa phần ở nhóm tuổi 28- < 32 tuần tuổi thai (44,2% và 36,5%), p< 0,05. Trẻ càng non tháng thời gian điều trị càng dài, đặc biệt ở nhóm 28 - < 32 tuần ( trung bình 25,94 + 12,75 ngày), tỷ lệ sống (78,6%), tử vong (18,4%)%. Ở nhóm tuổi < 28 tuần tỷ lệ tử vong lên tới 83,3%, p < 0,05.
#sơ sinh non tháng #lâm sàng #biến chứng #tử vong #preterm birth #clinical #complications #mortality
Tình hình kết quả sinh non tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2020
Tạp chí Phụ Sản - Tập 20 Số 3 - Trang 50-54 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nhận xét diễn biến tình trạng trẻ sơ sinh non tháng ở sản phụ sinh non tại Khoa Sản Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 123 sản phụ sinh non tại Khoa Sản Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2020. Kết quả và kết luận: Nhóm tuổi 20 - 35 chiếm tỉ lệ cao nhất 84,6%. Sản phụ sống ở nông thôn chiếm 55,3%. Tuổi thai 34 - < 37 tuần chiếm tỷ lệ cao nhất 62,2%. Có 19,5% trường hợp thiểu ối. Tỷ lệ sản phụ có thiếu máu chiếm 16,3%. Trong số 123 trẻ non tháng sinh ra có 56 trẻ nằm cùng mẹ, 67 trẻ chuyển khoa nhi điều trị, 6 trẻ tử vong sau sinh.Trẻ có trọng lượng sơ sinh từ 1500 - 2499gr chiếm tỷ lệ cao nhất 53,7%. Trong tổng số 67 trẻ chuyển nhi điều trị, suy hô hấp chiếm 35,8%, vàng da chiếm 9,0%. Trẻ mắc kết hợp từ hai bệnh trở lên chiếm tỷ lệ 55,2%
#sinh non #suy hô hấp #vàng da #sơ sinh non tháng
Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến thực hànhphương pháp Kangaroo của bà mẹ có con sinh non tháng tại Khoa Sơ sinh Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 6 Số 02 - Trang 100-107 - 2023
Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến thực hành phương pháp Kangaroo của bà mẹ có con sinh non tháng tại khoa sơ sinh bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 108 bà mẹ có con sinh non tháng tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ tháng 03/2021 đến tháng 06/2021. Kết quả: 97,2% bà mẹ chưa từng thực hiện phương pháp Kangaroo trước đây. Tỷ lệ thực hành đạt (từ 80% - 100%) các bước chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo là 78,7%. Chưa có mối liên quan giữa tiền sử sản khoa, đặc điểm của trẻ với thực hành phương pháp Kangaroo của các bà mẹ. Kết luận: Thực hành đạt các bước chăm sóc trẻ của các bà mẹ là khá cao. Các bà mẹ đã thực hành phương pháp Kangaroo nhiều hơn 7 ngày có tỷ lệ Đạt thực hành cao hơn có ý nghĩa thống kê so với bà mẹ có số ngày thực hiện chăm sóc trẻ từ 7 ngày trở xuống.
#Kangaroo #thực hành #bà mẹ #sinh non tháng
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SUY HÔ HẤP SƠ SINH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Suy hô hấp vẫn là nguyên nhân thường gặp nhất gây nên tình trạng bệnh lý và tử vong thời kỳ sơ sinh. Xác định tỷ lệ các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, nguyên nhân suy hô hấp. Đánh giá kết quả điều trị và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tử vong suy hô hấp sơ sinh. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Có 157 trường hợp trẻ sơ sinh có dấu hiệu suy hô hấp tại khoa Hồi sức Tích cực - Chống độc Nhi, Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang từ ngày 1/1/2021 đến ngày 30/9/2021. Kết quả: 79,62% trẻ suy hô hấp nhập viện vào ngày đầu sau sanh, tỉ lệ nam/nữ là 1,53/1. Nguyên nhân gây suy hô hấp hay gặp nhất là bệnh màng trong (42,04%), tiếp theo là các bệnh lý tại phổi (36,94%), sanh ngạt (3,28%). Điều trị khỏi, xuất viện (78,98%), nặng xin về (6,37%) và tử vong (1,91%). Nhóm trẻ có tuổi thai < 28 tuần có tỉ lệ bệnh nặng hơn gấp 7,18 lần nhóm trẻ có tuổi thai ³ 37 tuần. Nhóm trẻ có cân nặng < 1000 gam có tỉ lệ bệnh nặng hơn gấp 6,30 lần nhóm trẻ có cân nặng ³ 2500 gam. So với nhóm trẻ có điểm silverman ≤ 3 điểm, nhóm trẻ có điểm silverman > 6 điểm có tỉ lệ bệnh nặng hơn gấp 16,00 lần. Nhóm trẻ có thở máy tỉ lệ bệnh nặng gấp 6,23 lần nhóm trẻ thở oxy, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,001. Kết luận: Cần quan tâm công tác quản lý thai kỳ, đặt biệt là các sản phụ có nguy cơ cao. Tăng cường các kỹ năng hồi sức sơ sinh cho các y bác sĩ tuyến huyện, tuyến xã. Phát hiện sớm và điều trị kịp thời các nguyên nhân gây sinh non, suy dinh dưỡng bào thai, suy thai, ngạt chu sinh.
#suy hô hấp sơ sinh #bệnh màng trong #non tháng
Tổng số: 29   
  • 1
  • 2
  • 3