Sơ sinh non tháng là gì? Các công bố khoa học về Sơ sinh non tháng
Sơ sinh non tháng là khi thai nhi được sinh ra trước khi hoàn thành 37 tuần thai kỳ. Sơ sinh non tháng (hay còn gọi là sinh non) là khi thai nhi được sinh ra tr...
Sơ sinh non tháng là khi thai nhi được sinh ra trước khi hoàn thành 37 tuần thai kỳ.
Sơ sinh non tháng (hay còn gọi là sinh non) là khi thai nhi được sinh ra trước khi hoàn thành 37 tuần thai kỳ, tính từ ngày đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt cuối cùng. Thời gian thai nhi được nhận là sơ sinh non tháng được chia thành các độ tuần như sau:
- Sơ sinh non tháng: 28-31 tuần thai kỳ
- Sơ sinh non tháng rất nhẹ: 26-28 tuần thai kỳ
- Sơ sinh non tháng nhẹ: 28-32 tuần thai kỳ
- Sơ sinh non tháng trung bình: 32-34 tuần thai kỳ
- Sơ sinh non tháng nặng: 34-37 tuần thai kỳ
Sơ sinh non tháng có nguy cơ cao hơn cho các vấn đề sức khỏe và phát triển so với thai nhi sinh đúng hạn. Thai nhi sơ sinh non tháng thường có mức độ trưởng thành không hoàn chỉnh, chưa phát triển hoàn toàn các hệ thống cơ quan và chức năng của cơ thể.
Các vấn đề sức khỏe thường gặp ở sơ sinh non tháng bao gồm hô hấp kém, khó ngậm sữa, khả năng giữ ấm kém, nguy cơ nhiễm trùng cao, vấn đề sự phát triển và tăng cân chậm chạp.
Việc chăm sóc và điều trị cho sơ sinh non tháng thường yêu cầu sự hỗ trợ từ bác sĩ chuyên khoa và các chuyên gia y tế. Người bệnh có thể được điều trị trong phòng chăm sóc sơ sinh đặc biệt (NICU) để nhận được chăm sóc đặc biệt và giám sát liên tục.
Mục tiêu của việc chăm sóc sơ sinh non tháng là giảm nguy cơ và tác động của các vấn đề sức khỏe, và đảm bảo sự phát triển và tăng cân tốt nhất cho em bé.
Các phân loại sơ sinh non tháng thường dựa trên số tuần thai kỳ và trọng lượng của thai nhi:
1. Sơ sinh non tháng: Đây là trường hợp sơ sinh trước 37 tuần thai kỳ. Thai nhi có thể được phân loại thành sơ sinh non tháng 28-31 tuần (rất sớm) hoặc sơ sinh non tháng 32-37 tuần (gần hơn đến tuần hạn). Những em bé sơ sinh non tháng này thường cần đến trung tâm chăm sóc sơ sinh đặc biệt.
2. Sơ sinh non tháng rất nhẹ: Đây là trường hợp sơ sinh từ 26 đến 28 tuần thai kỳ. Đặc điểm của sơ sinh non tháng rất nhẹ là chúng thường có trọng lượng nhỏ hơn, gan và phổi chưa phát triển đầy đủ, hệ thần kinh chưa rõ ràng và có nguy cơ cao cho các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
3. Sơ sinh non tháng nhẹ: Đây là trường hợp sơ sinh từ 28 đến 32 tuần thai kỳ. Sơ sinh non tháng nhẹ thường có trọng lượng lớn hơn so với sơ sinh non tháng rất nhẹ, nhưng vẫn có nguy cơ cao cho các vấn đề sức khỏe như hô hấp khó khăn, nguy cơ nhiễm trùng, thiếu dinh dưỡng và sự phát triển không đầy đủ.
4. Sơ sinh non tháng trung bình: Đây là trường hợp sơ sinh từ 32 đến 34 tuần thai kỳ. Sơ sinh non tháng trung bình có nguy cơ ít hơn so với sơ sinh non tháng nhẹ, nhưng vẫn có thể cần chăm sóc đặc biệt trong phòng sơ sinh đặc biệt.
5. Sơ sinh non tháng nặng: Đây là trường hợp sơ sinh từ 34 đến 37 tuần thai kỳ. Sơ sinh non tháng nặng thường có trọng lượng gần bằng với thai nhi sinh đúng hạn, nhưng vẫn có nguy cơ nhất định cho các vấn đề sức khỏe và cần xem xét chăm sóc sơ sinh đặc biệt.
Sơ sinh non tháng thường yêu cầu chăm sóc đặc biệt và theo dõi thường xuyên để đảm bảo sự phát triển và tăng cân tốt nhất. Các biện pháp chăm sóc bao gồm đảm bảo nhiệt độ ổn định, dinh dưỡng thích hợp, theo dõi sự phát triển và tăng cân, hỗ trợ hô hấp nếu cần, giảm nguy cơ nhiễm trùng và đảm bảo sự phát triển hệ thần kinh. Các chuyên gia y tế sẽ đánh giá và theo dõi con của bạn để quyết định cách chăm sóc tốt nhất cho em bé sơ sinh non tháng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sơ sinh non tháng":
Để đánh giá các yếu tố nguy cơ trước sinh và trong sinh liên quan đến sự phát triển của xuất huyết mô nguyên sinh - xuất huyết nội thất (GMH-IVH), chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu dịch tễ học tiến cứu trên 449 trẻ sơ sinh có trọng lượng lúc sinh dưới 1501 gram. Nghiên cứu này cho phép chúng tôi kiểm tra giả thuyết mà chúng tôi đã đưa ra trước đó rằng trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị tiền sản giật có nguy cơ phát triển GMH-IVH giảm đáng kể. Trong số này, bảy mươi hai (16%) trẻ sơ sinh đã phát triển GMH-IVH. Một (2,5%) trong số 40 bà mẹ có chẩn đoán tiền sản giật và 71 (17,4%) trong số 409 bà mẹ không bị tiền sản giật đã sinh ra những trẻ sơ sinh phát triển GMH-IVH. GMH-IVH đã được quan sát thấy ở 6/107 (5,6%) trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị cao huyết áp, bao gồm 4/69 (5,8%) của trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị cao huyết áp thai kỳ, so với 66/352 (18,8%) trẻ sơ sinh từ các bà mẹ không mắc cao huyết áp. Chỉ 7,3% (8/108) trẻ sinh ra từ các bà mẹ có protein niệu đã bị GMH-IVH, so với 18,3% (64/350) trẻ sơ sinh có mẹ không mắc protein niệu. GMH-IVH đã được quan sát thấy ở 5/89 (5,6%) trẻ sơ sinh có mẹ bị cả cao huyết áp và protein niệu, trong khi 63/332 (19%) trẻ sinh ra từ các bà mẹ không có cả hai yếu tố đó đã phát triển GMH-IVH. Trong phân tích hồi quy logistic từng bước, những phát hiện quan trọng này không thể được giải thích bởi sự hiện diện của cơn chuyển dạ, toan máu sau sinh, cần phải đặt nội khí quản, việc dùng corticosteroids trước sinh, trọng lượng lúc sinh hay tuổi thai. Ngoài ra, chúng tôi phát hiện rằng mẹ nhận được magnesi sulfat có liên quan đến nguy cơ giảm GMH-IVH ngay cả đối với những trẻ sinh ra từ các bà mẹ không có tiền sản giật. Chúng tôi giả thuyết rằng mối liên hệ giữa tiền sản giật và GMH-IVH có thể liên quan đến tác động của prostaglandin. Giá trị prostaglandin I2 (PGI2) ở mẹ, nhau thai và dây rốn giảm thường thấy ở những phụ nữ bị tiền sản giật. Do đó, trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị tiền sản giật có thể ở trong trạng thái sinh lý tương tự như những người đã nhận indomethacin, một chất ức chế cyclooxygenase khiến giảm mức PGI2 và là một tác nhân dự phòng GMH-IVH hiệu quả. Chúng tôi kết luận rằng tiền sản giật/ngộ độc thai kỳ ở mẹ trong tam cá nguyệt ba sớm có liên quan đến nguy cơ giảm GMH-IVH ở trẻ sơ sinh non tháng. (J Child Neurol 1992;7:70-76).
- 1
- 2
- 3